Năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa

Năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa

04/06/2020

ĐẶNG HỮU TOÀN

Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

 

Tóm tắt: Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ then chốt. Với tư cách Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới nói riêng, một trong những nhiệm vụ chính trị của Đảng trong giai đoạn hiện nay là tập trung làm rõ quan niệm về Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo, về năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có trên cơ sở có được những nhận thức mới, đúng đắn về các vấn đề này, Đảng mới có được những giải pháp mang tính đột phá để nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đổi mới và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa công cuộc đổi mới và phát triển bền vững đất nước đến thành công.

Từ khóa: Năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng, định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới và phát triển đất nước.

 

Tổng kết thực tiễn đổi mới và phát triển đất nước, một trong những bài học lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, lấy việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh làm khâu then chốt, làm nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, đổi mới hệ thống chính trị nói riêng.

Trên thực tế, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, với tư cách Đảng cầm quyền, Đảng duy nhất lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự đổi mới, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa - định hướng chính trị ở Việt Nam. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng, công tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển đảng và công tác kiểm tra đảng đã có những chuyển biến mới theo hướng tích cực; đa số cán bộ, đảng viên đã phát huy được vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo và giữ gìn được phẩm chất đạo đức của mình, nhờ đó, góp phần to lớn vào những thành công của công cuộc đổi mới và giữ vững ổn định chính trị ở Việt Nam.

Tuy nhiên, cùng với những thành công đó, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong những năm đổi mới vừa qua, nhìn chung, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1 - 2016) đã chỉ rõ, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng mà nếu không được sửa chữa, đó sẽ là thách thức không chỉ đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn đối với cả sự tồn vong của chế độ. Đặc biệt là tình trạng “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, cơ hội, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn diễn ra nghiêm trọng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh,…[1] Tình trạng này không chỉ làm phương hại tới vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng trong công cuộc đổi mới, làm suy giảm niềm tin của dân đối với vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng, mà trên một phương diện nào đó, còn có ảnh hưởng tiêu cực đến đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa - định hướng chính trị ở Việt Nam.

Mặt khác, những biến động đầy phức tạp trên trường quốc tế, những khuynh hướng phát triển đa dạng trong khu vực và trên thế giới, cộng với những vấn đề phức tạp chưa được giải quyết trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam những năm vừa qua; và thêm vào đó là việc các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn không ngừng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng nhiều chiêu bài với những hình thức ngày càng tinh vi hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam, xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ảnh hưởng nhất định đến vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa - định hướng chính trị.

Trong bối cảnh đó, nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa - định hướng chính trị ở Việt Nam, có thể nói, là công việc không chỉ có ý nghĩa lý luận bức thiết, mà còn có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.

Thành công và thất bại của các đảng cầm quyền và lãnh đạo đất nước ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong thực hiện định hướng chính trị là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Chính vì thế, ngay từ khi tuyên bố đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo là nhiệm vụ then chốt và coi đó là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng2.

Thực tiễn hơn 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt Nam những đòi hỏi bức bách để qua đó, có được những nhận thức đầy đủ hơn quan niệm về Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo, về năng lực cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở đó đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội một cách đúng đắn hơn, đổi mới và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng chính trị.

Trong những năm đổi mới, trước sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ mới đang đặt ra trước Đảng những vấn đề mới về năng lực cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, đặc biệt là đối với Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ tự đổi mới, tự chỉnh đốn, trong đó đổi mới phương thức lãnh đạo có tầm quan trọng đặc biệt. Trên thực tế, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có việc định hướng chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, ngày càng được chú ý nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Nhờ đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đã có nhiều đổi mới theo hướng tiến bộ, nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Những tiến bộ này, trước hết là sản phẩm của sự đổi mới tư duy về quyền làm chủ của nhân dân, về chức năng và quyền lực của Nhà nước, về năng lực cầm quyền, về vai trò lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng đã nhận thấy rõ việc không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo cách thức như thời chiến tranh và quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, vì thế Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chủ động điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời tự đổi mới và hoàn thiện phương thức hoạt động, phong cách công tác của Đảng. Đó là điều mà nhiều người đều nhận thấy. [2]

Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng cầm quyền và nhà nước là các trung tâm quyền lực có nguồn gốc khác nhau. Trong các xã hội dân chủ, quyền lực của Đảng là quyền lực của một giai cấp, một lực lượng xã hội, còn quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân được tổ chức thành nhà nước. Không thể đồng nhất quyền lực của Đảng với quyền lực của Nhà nước. Quyền lực của Đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị (vạch chủ trương, đường lối), còn quyền lực của Nhà nước là quyền lực điều hành xã hội, là tổ chức và quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt (giai đoạn chiến tranh và cách mạng), khi nhiệm vụ chính trị là giữ và bảo vệ chính quyền nhà nước là ưu tiên hàng đầu, thì cần thiết phải thống nhất quyền lực đảng và quyền lực nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng đại của thời kỳ đó. Đây cũng là đòi hỏi khách quan, nhưng chỉ phù hợp trong giai đoạn ấy. Khi chuyển đổi giai đoạn cách mạng, cũng có nghĩa là thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới, việc phân định rõ quyền lực giữa Đảng và Nhà nước cho phù hợp với tính chất, đặc điểm, yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới đó là cần thiết, tất yếu.

Trong chế độ một đảng duy nhất cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng, về thực chất, là năng lực cầm quyền của Đảng, nhưng đó là sự cầm quyền của chỉ một Đảng Cộng sản được nhân dân thừa nhận bằng pháp luật. Đảng cầm quyền thông qua sự lãnh đạo cơ quan công quyền, chứ không tự mình biến thành Nhà nước.

Trước sau, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[3]. Đảng thực hiện vai trò cầm quyền (cũng tức là vai trò lãnh đạo) đối với Nhà nước và toàn xã hội dựa trên một nguyên tắc bất di bất dịch, đó là hệ thống một đảng cầm quyền duy nhất, không có đảng đối lập, không có cạnh tranh quyền lực. Từ nguyên tắc tổ chức đảng như vậy đã đặt ra rất nhiều vấn đề về Đảng, về vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng trong thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới hiện nay.

Thực tiễn quá trình thực hiện vai trò của một đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hướng tới dân, vì mục đích đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân và do đó, Đảng được dân tin, dân hy sinh cả tài sản, tính mạng của mình cho sự nghiệp của Đảng. “Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng”[4].

Tuy nhiên, như thực tế đã cho thấy, bên cạnh những yếu tố tích cực do hệ thống một đảng cầm quyền tạo nên, thì cũng chính hệ thống này lại tiềm ẩn những yếu tố khách quan khác là nguyên nhân làm nảy sinh trong Đảng một số khuyết tật, hạn chế. Đó là bệnh chủ quan, duy ý chí; lấn sân Nhà nước; một số cán bộ đảng có chức, có quyền tham nhũng tài sản công, biến quyền lực công thành thứ tài sản của riêng mình, phục vụ cho lợi ích của mình, gia đình mình; tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, về phẩm chất đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã đến mức báo động. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức. “Chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng Đảng”5.

Để khắc phục những khiếm khuyết đó trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, một trong những phương thức quan trọng nhất mà Đảng cần phải sử dụng và sử dụng một cách thực sự hiệu quả là phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ trong Đảng. Từ đó, Đảng phải thật sự phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nếu không khắc phục được những hạn chế bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan và cả chủ quan trong hệ thống, thì những khuyết tật đó sẽ tích tụ lại và đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở nên nguy hiểm, là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không quan tâm tới vấn đề này.[5]

Về năng lực cầm quyền của Đảng, trước hết, với tư cách Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam là người chịu trách nhiệm trước nhân dân về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Năng lực cầm quyền của Đảng xác định vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng, thể hiện quyền hạn và trách nhiệm của Đảng trong việc quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước trong mỗi thời kỳ cách mạng và trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, trong các mối quan hệ quyền lực cụ thể với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Năng lực cầm quyền của Đảng có phạm vi, giới hạn và mức độ xác định trong từng mối quan hệ chính trị và quyền lực cụ thể, với các đối tượng cụ thể. Trên thực tế, năng lực cầm quyền của Đảng thể hiện rõ nhất trong Cương lĩnh chính trị, trong chủ trương, đường lối của Đảng. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của đất nước là định hướng chính trị thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Năng lực cầm quyền đó của Đảng phải được thể hiện trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, từ việc xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc cho đến nội dung thực hiện mục tiêu chính trị đó; bao quát toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến đối ngoại, quốc phòng, an ninh.

Trong lĩnh vực chính trị, việc hoạch định đường lối chính trị là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng. Để cầm quyền, lãnh đạo, Đảng có trách nhiệm xác lập thể chế chính trị - xã hội của đất nước trên các mặt: Cơ cấu tổ chức chính trị - xã hội, cơ chế vận hành xã hội và những điều kiện đảm bảo cho hai vấn đề đó. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của Đảng là giữ vững và thực hiện ngày càng hiệu quả định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực kinh tế, định hướng chính trị trọng tâm của Đảng là xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh6. Một vấn đề có tính quyết định trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa cho suốt quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường này là phải đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất bằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, thiết lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng tốt những lợi thế do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra. [6]

Trong lĩnh vực xã hội, thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng là phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các quan hệ xã hội lành mạnh, bảo đảm thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển con người Việt Nam toàn diện, xây dựng một xã hội văn minh, con người hạnh phúc, quản lý tốt phát triển xã hội để phát triển xã hội bền vững.

Trong lĩnh vực văn hóa, trên nền tảng của việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng phải định hướng xây dựng một nền văn hoá chính trị nói chung và văn hoá cầm quyền, văn hóa lãnh đạo của Đảng nói riêng. Văn hoá chính trị của Đảng, đến lượt mình, phải giữ vai trò chỉ đạo trong việc lựa chọn mục tiêu, lý tưởng chính trị; quy định đường lối, nội dung, chiến lược phát triển đất nước; đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển văn hóa; góp phần và chỉ đạo xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Một vấn đề quan trọng của Đảng cầm quyền là quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách lực lượng của nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách hóa thân vào Nhà nước, “giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”7. Đảng lãnh đạo các cơ quan đó vận hành theo chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng đã xác định. Bằng phương thức cầm quyền, lãnh đạo của mình, Đảng làm cho các cơ quan nhà nước vận hành đúng và có hiệu quả theo chức năng, trách nhiệm của mình. Đảng cầm quyền thành công là ở chỗ lãnh đạo vì dân, lãnh đạo một cách dân chủ, theo pháp luật, bảo đảm tính khoa học.

 Về phương thức cầm quyền của Đảng. Với tư cách Đảng cầm quyền, Đảng phải có phương thức cầm quyền. Phương thức cầm quyền của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện pháp mà Đảng vận dụng để lãnh đạo Nhà nước, tác động vào Nhà nước và bằng Nhà nước nhằm thực hiện năng lực cầm quyền, đạt mục tiêu chính trị cuối cùng của Đảng - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Phương thức cầm quyền của Đảng cũng có nghĩa là Đảng xây dựng tổ chức, thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng xác định. [7]

Phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo là những khái niệm khác nhau, nhưng có những nội dung đồng nhất với nhau. Đảng vẫn có thể lãnh đạo nhân dân khi chưa giành chính quyền, nhưng Đảng chỉ có thể cầm quyền khi đã giành được quyền lực nhà nước về tay nhân dân. Do vậy, phương thức cầm quyền của Đảng, về thực chất, là phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng đã ở vị thế cầm quyền. Nếu không ở vị thế cầm quyền, Đảng không thể nào thực hiện được đầy đủ các phương thức lãnh đạo này, đặc biệt là việc lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Dù Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, song Đảng vẫn chỉ là một tổ chức chính trị, lãnh đạo chính trị. “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy”; “Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”8. Do vậy, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội phải bao gồm:

Thứ nhất, Đảng lãnh đạo thông qua các quan điểm, cương lĩnh, chiến lược, các đường lối, chủ trương, điều lệ, chỉ thị và các quyết định khác của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng thành các quyết định của cơ quan công quyền. Nhà nước căn cứ vào nghị quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các đạo luật, các nghị định, thông tư và các văn bản pháp quy khác nhằm thực hiện nghị quyết trong thực tiễn.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Thứ tư, Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất của Đảng vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy quyền lực nhà nước. Đảng đào tạo những cán bộ, đảng viên của Đảng trở thành những người có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, có năng lực chuyên môn giỏi, có khả năng tuyên truyền, vận động quần chúng để giới thiệu ứng cử bầu vào các cơ quan quyền lực dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước.

Thứ năm, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác kiểm tra của các tổ chức đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nghị quyết của Đảng. [8]

Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.

Thứ bảy, Đảng cầm quyền, lãnh đạo phải “lấy dân làm gốc”, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân, phát huy tối đa và hiệu quả sức mạnh của nhân dân. “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[9]. Điều đó nói lên mục tiêu của Đảng là vì dân và phương thức cầm quyền hiệu quả là phải dựa vào sức mạnh của nhân dân.

Thứ tám, với tư cách Đảng duy nhất cầm quyền, năng lực cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện ở định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa, cách thức điều hành Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội làm theo Đảng, Đảng còn phải và nhất thiết phải lãnh đạo một cách trí tuệ, khoa học và nghệ thuật. Đó là sự cầm quyền khéo léo, linh hoạt, nhạy bén, bảo đảm sự kết hợp thực tế và có hiệu quả giữa các sự kiện cụ thể, đồng thời dự báo được xu hướng vận động và phát triển của các sự kiện đó.

Toàn bộ phương thức cầm quyền của Đảng chủ yếu được thực hiện thông qua sự lãnh đạo (với cách hiểu về thuật ngữ lãnh đạo như ở Việt Nam hiện nay) - đó là nhằm thể chế hoá ý chí của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước và lãnh đạo tổ chức thực hiện ý chí đó.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền. Điều đó chứng tỏ sức mạnh và uy tín của Đảng, tạo ra những điều kiện mới, những phương tiện mới, công cụ mới để Đảng thực hiện mục tiêu, lý tưởng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, nên mọi vấn đề, từ Cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng đều có thể thảo luận, tranh luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác là phấn đấu cho lợi ích của dân tộc, cho lợi ích của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Vì vậy, Cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng chẳng những cần phải được thảo luận rộng rãi trong Đảng, mà còn có thể đưa ra cho toàn dân thảo luận trước khi Đảng quyết định. Đối với nhân dân, Đảng còn có thể cùng dân thảo luận, bàn bạc thì không lý gì, ngay trong nội bộ Đảng, Đảng lại không phát huy dân chủ rộng rãi để mọi đảng viên của Đảng được thảo luận và cùng quyết định.

Là một Đảng duy nhất cầm quyền, việc Đảng biết, thấu hiểu nguyện vọng của quần chúng nhân dân để lãnh đạo các cơ quan, cán bộ, đảng viên của Đảng và các cơ quan, đội ngũ công chức, viên chức của Nhà nước giải quyết mọi công việc cũng là Đảng vì lợi ích của nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với Nhà nước và xã hội.

Năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa, xét trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và toàn xã hội, thì vấn đề trăn trở, bức xúc đặt ra cần giải quyết hiện nay là Đảng phải lãnh đạo Nhà nước như thế nào và bằng cách nào? Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong việc hình thành các quyết sách của Nhà nước ra sao? Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Đảng lãnh đạo vấn đề nhân sự của Nhà nước như thế nào? Phạm vi lãnh đạo đến đâu để không trái với quyền làm chủ của nhân dân, không trái với bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa? Đây là những vấn đề lớn, đòi hỏi phải được nghiên cứu công phu, cần huy động cả đội ngũ đông đảo các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực cùng nghiên cứu, đồng thời cũng cần có thời gian để kiểm định. Cũng đã có không ít những vấn đề căn bản, cốt yếu được nhiều nhà khoa học bỏ nhiều tâm huyết nghiên cứu, tổng kết và đưa ra với tiếng nói đồng thuận, nhưng vì nhiều lý do nên vẫn không có chuyển biến gì đáng kể; cũng đã có không ít vấn đề còn chưa thống nhất, chưa đạt được sự đồng thuận cần tiếp tục làm sáng tỏ...

Trong tiến trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất lượng và hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành của Nhà nước có hiệu quả, pháp luật được tôn trọng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Như vậy, có thể nói, việc xây dựng và hiện thực hóa các quá trình dân chủ trong xã hội tuỳ thuộc trước hết ở phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Tuy nhiên, tiến trình đổi mới đó là cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị quyết liệt, là những vấn đề không đơn giản, nó liên quan đến tư duy chính trị, truyền thống chính trị, đến cả hệ thống và các thể chế chính trị đã từng tồn tại mấy chục năm với những suy nghĩ, cách làm, thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức, suy nghĩ, hành động, thói quen của người nắm quyền, liên quan đến nhiều nhóm lợi ích nên rất khó thay đổi một cách căn bản tức thời, trong đó không loại trừ những lực cản từ các nhóm lợi ích.

Với những thuận lợi và khó khăn đó, việc đổi mới năng lực cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa để trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền mà không trở thành chuyên quyền, độc đoán là vấn đề sống còn của Đảng Cộng sản Việt Nam, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Những điều kiện mới, hoàn cảnh mới ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề mới về năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam không những phải đổi mới hơn nữa quan niệm về năng lực, phương thức cầm quyền, mà còn phải nâng cao hơn nữa năng lực hiện thực hóa quan niệm đã được đổi mới đó; đồng thời, phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Đảng thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân.

Theo đó, Đảng cần phải “tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với Đảng cầm quyền”[10] để không chỉ tạo ra bước chuyển mới trong công tác xây dựng Đảng, mà còn tạo ra những nhận thức mới, đúng đắn về năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện định hướng chính trị - định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 

 


[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.192-197.

[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.32.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.88.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.20.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.198.

[6] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.102.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.89.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.89.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.89.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.217.

 

Nguồn: Tạp chí TRIẾT HỌC, SỐ 2 (345), THÁNG 2 - 2020

 

Các tin đã đưa ngày: