NGUYỄN NGỌC HÀ
PGS.TS, Chi bộ Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tư tưởng dân chủ là một giá trị vĩ đại của nhân loại. Tư tưởng dân chủ trái ngược với tư tưởng quân chủ. Tư tưởng dân chủ thừa nhận, dân là chủ, nhà nước là của dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước do dân bầu ra theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Ngay từ thời cổ đại, tư tưởng dân chủ đã được hiện thực hóa bước đầu ở nhà nước Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ XX thì tư tưởng dân chủ mới trở thành tư tưởng chủ đạo của nhân loại, vì chỉ đến lúc đó, hầu hết các nước chế độ quân chủ mới nhường chỗ cho chế độ dân chủ.
Năm 1911, Hồ Chí Minh xuất dương tìm đường giải phóng dân tộc. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng dân chủ của phương Tây; từ đó, Người chủ trương sau khi giành được độc lập dân tộc thì sẽ xây dựng đất nước theo chế độ dân chủ, chứ không theo chế độ quân chủ. Sau cuộc tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 6/1/1946, lần đầu tiên, Việt Nam trở thành một nước dân chủ.
Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam đầu tiên có tư tưởng dân chủ. Trước đó, Phan Chu Trinh cũng đã chuyển từ tư tưởng quân chủ sang tư tưởng dân chủ. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tổ chức và lãnh đạo công cuộc xây dựng nước Việt Nam theo tư tưởng dân chủ.
Theo nghĩa chung nhất, tư tưởng dân chủ thừa nhận dân là chủ, nhà nước là của dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước do dân bầu ra theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Tuy nhiên, không phải chế độ dân chủ ở nước nào và thời nào cũng như nhau. Khi nước Việt Nam Dân chủ Công hòa hình thành, thế giới đã có nhiều nước dân chủ, mỗi nước dân chủ là một mô hình dân chủ, trong đó Liên Xô là một mô hình dân chủ. Có ý kiến cho rằng, mô hình dân chủ mà Hồ Chí Minh xây dựng ở Việt Nam là mô hình dân chủ của Liên Xô. Ý kiến này là không chính xác, vì mô hình dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hoàn toàn giống với mô hình dân chủ của một nước nào đó. Mô hình dân chủ của mỗi nước đều có tính đặc thù, tính đặc thù đó thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật của mỗi nước. Hiến pháp và pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hoàn toàn giống với Hiến pháp và pháp luật của một nước dân chủ nào. Khi xây dựng nước Việt Nam theo chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh không sử dụng nguyên xi một mô hình dân chủ của một nước nào. Đó là một biểu hiện của nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
Một biểu hiện khác của nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là cách giải thích riêng của Hồ Chí Minh về dân chủ. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ như sau: “Chính quyền dân chủ nghĩa là chính quyền do nhân dân làm chủ”[1]; “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”[2]. Đây là một trong định nghĩa rõ ràng và dễ hiểu nhất về dân chủ với tính cách một chế độ chính trị. Định nghĩa này giúp chúng ta phân biệt rõ sự khác biệt giữa chế độ dân chủ với tác phong dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ, tư tưởng thân dân, tư tưởng lấy dân làm gốc. Cũng theo Hồ Chí Minh, dân chủ là giá trị quý báu của nhân dân, là giá trị, mục tiêu, quyền lợi, khát vọng của con người. Hồ Chí Minh viết: “Dân chủ là quý báu nhất của nhân dân”[3]. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có quan hệ mật thiết với tự do, thực hiện dân chủ là điều kiện để có tự do. Về điều này, Hồ Chí Minh viết: “Ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức đế quốc đặt ra”[4]; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”[5], “thực hành dân chủ là để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do”[6]. Hồ Chí Minh cho rằng, thực hiện dân chủ là điều kiện để phát huy tính tích cực của nhân dân, dân chủ là động lực để phát triển xã hội. Về điều này, Hồ Chí Minh viết: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”[7]; “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc của Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[8], “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”[9]. Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ ở Việt Nam không phải là hình thức, không phải là dân chủ cho thiểu số hoặc cho đa số, mà là dân chủ cho toàn dân, nền dân chủ đó đem lại quyền lợi cho toàn dân, chứ không phải chỉ cho một bộ phân nhân dân nào. Về điều này, Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[10]. Hồ Chí Minh so sánh quan hệ dân - chính phủ với quan hệ chủ - tớ. Người viết: “Chính phủ Cộng hoà Dân chủ là gì? Là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”[11]. Cách so sánh quan hệ dân - chính phủ với quan hệ chủ - tớ vừa giàu hình ảnh, dễ hiểu, nhưng cũng rất sâu sắc. Bởi vì, trong chế độ dân chủ, mọi thành viên chính phủ, mọi nhân viên nhà nước, kể cả nguyên thủ quốc gia, đều là đày tớ của dân, chứ không phải là chủ của dân. Quan hệ dân – nhà nước trong chế độ dân chủ ngược với quan hệ dân – nhà nước trong chế độ quân chủ. Vì trong chế độ quân chủ, dân không là chủ của vua, mà là tớ của vua; vua là chủ của dân, chứ không phải là tớ của dân.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ là nền tảng tư tưởng cho quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay không chỉ đem lại cho lợi ích cho một bộ phận nhân dân, mà còn đem lại cho lợi ích cho toàn thể nhân dân - cho cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh dân. Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, nhà nước Việt Nam hiện nay là nhà nước của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phải chỉ là nhà nước của giai cấp công nhân, mà còn là nhà nước của giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh dân, do toàn thể nhân dân, vì toàn thể nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, mọi người Việt Nam hiện nay đều đã có tự do, chứ không phải chỉ đợi đến khi nhà nước tiêu vong thì mới có tự do.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ là dễ hiểu, có nội dung đặc sắc và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế./
[1]. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 6, xb lần 2, 1950-1952, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 365.
[2]. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, xb lần 2, 1955-1957, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.218.
[3] Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, xb lần 2, 1955-1957, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.279.
[4]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, xb lần 2, 1930-1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 583.
[5] Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, xb lần 2, 1955-1957, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 218.
[6] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, xb lần 2, 1947-1949, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 20.
[7] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, xb lần 2, 1947-1949, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 244.
[8] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, xb lần 2, 1958-1959, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.590.
[9] Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, xb lần 2, 1958-1959, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 592.
[10]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 698.
[11]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 60.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Viện Triết học (http://philosophy.vass.gov.vn/)