Phát triển kinh tế xanh ở Nam Phi và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh ở Nam Phi và hàm ý chính sách cho Việt Nam

24-07-2020

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam

Năm 2018

Số 5 ;

Tóm tắt: Quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn vừa qua đã gây ra những tổn hại đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên của Nam Phi. Một phần tư hệ sinh thái của các dòng sông của quốc gia này bị ô nhiễm nghiêm trọng, sự ô nhiễm đó đã dẫn tới nguy cơ thiếu nguồn nước sạch. Mặc dù những nỗ lực gần đây của Chính phủ Nam Phi đã góp phần giảm bớt những hoạt động sản xuất tổn hại cho môi trường, nhưng tốc độ khắc phục tổn hại vẫn chậm hơn nhiều so với các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Do đó, Chính phủ Nam Phi đã cam kết thực thi những thay đổi căn bản trong cấu trúc nền kinh tế theo hướng ưu tiên những mục tiêu của nền kinh tế xanh trong các chính sách quốc gia. Chính sách phát triển kinh tế xanh ở Nam Phi là kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam trong phát triển kinh tế xanh.

Từ khóa: Kinh tế xanh, chính sách, Nam Phi.

Phân loại ngành: Kinh tế học

1. Đặt vấn đề

Nam Phi là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Tuy nhiên, sự phát triển mất cân đối và ngành công nghiệp điện, than được trợ cấp đặc biệt từ Chính phủ đã khiến cho Nam Phi trở thành một trong những quốc gia tiêu dùng nguyên liệu hóa thạch nhiều nhất trên thế giới. Điều này đã dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tạo ra sự căng thẳng cho việc cân bằng nhu cầu bức thiết để duy trì mức độ tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng. Chính phủ Nam Phi đã thiết kế và triển khai các chính sách về môi trường, khí hậu và năng lượng nhằm hỗ trợ và cân bằng các mục tiêu giảm bất bình đẳng, cải thiện an ninh lương thực, nâng cao tính cạnh tranh và duy trì đà tăng trưởng của nền kinh tế. Bài viết phân tích chính sách phát triển  kinh tế xanh của Nam Phi và nêu gợi ý cho  Việt Nam. 

2. Phát triển kinh tế xanh ở Nam Phi

2.1 Đổi mới khung khổ pháp luật Để thực hiện xanh hóa nền kinh tế trong Chiến lược quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Chính phủ Nam Phi đã đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng trong việc giảm bớt tỷ lệ carbon trong hoạt động sản xuất, đó là giảm lượng phát thải 34% vào năm 2020 và 42% vào năm 2025. Trong Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững và Bản Kế hoạch hành động, Chính phủ Nam Phi đã xác định 5 ưu tiên chiến lược, bao gồm: tăng cường các hệ thống kết hợp lập kế hoạch với triển khai thực hiện; bảo tồn hệ sinh thái quốc gia và sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả; chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh; xây dựng cộng đồng phát triển bền vững; thực hiện ứng phó một cách hiệu quả với biến đổi khí hậu [2].  

Thêm vào đó, Chính phủ còn ban hành Sách Trắng về biến đổi khí hậu (văn bản định hướng cho những ứng đối của Chính phủ đối với tình trạng biến đổi khí hậu), công bố Kế hoạch Tăng trưởng mới và Kế hoạch Hành động mới đối với lĩnh vực công nghiệp nhằm hướng tới việc phát triển một nền kinh tế xanh. 

Ngoài ra, Chính phủ Nam Phi đã triển khai một loạt các sáng kiến về quản trị xanh nhằm thiết lập các quy định mang tính nguyên tắc cơ bản. Ví dụ như: Chính phủ yêu cầu các quỹ hưu trí phải xem xét các rủi ro về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong quá trình đầu tư (Quy định 28), ban hành Bộ Quy tắc hướng dẫn đầu tư có trách nhiệm cho các ngành công nghiệp tại Nam Phi (CRISA) hay Quy định đòi hỏi các công ty niêm yết cung cấp báo cáo tổng hợp về hiệu quả cũng như rủi ro xã hội và môi trường. Những quy định mang tính định hướng này đã thúc đẩy việc đầu tư có trách nhiệm theo hướng phát triển bền vững, cũng như nâng cao mức độ nhận thức chung của các thành viên thị trường [5]. 2.2. Huy động nguồn lực

Quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh đòi hỏi một nguồn lực đáng kể cần được đầu tư vào cơ sở hạ tầng môi trường, nguồn nước và năng lượng, cũng như để phát triển và thương mại hóa các công nghệ mới có liên quan. Chính phủ Nam Phi đã cam kết tài trợ trong các chính sách quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, đưa mục ngân sách này vào trong kế hoạch ngân sách hàng năm của quốc gia, hợp nhất những chương trình ứng phó biến đổi khí hậu không những tại cấp chính quyền trung ương, cấp tỉnh và địa phương mà còn ở cấp các định chế phát triển, và các doanh nghiệp nhà nước [2].

Năm 2011, Chính phủ Nam Phi và đại diện các doanh nghiệp và công đoàn lao động đã ký kết một bản Hiệp ước Kinh tế Xanh với 12 cam kết có liên quan đến phát triển nền kinh tế xanh, theo đó trong giai đoạn từ 2011-2013 đã có 86 tỷ USD được sử dụng để đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng, trong đó có một khoản 80 triệu USD được phân bổ cho Quỹ Xanh. Mục tiêu thành lập Quỹ Xanh là: cung cấp tài trợ ban đầu cho các dự án có tác động lớn tới môi trường và cho các dự án hướng tới việc triển khai mục tiêu về biến đổi khí hậu; mở rộng nền kinh tế xanh; và thu hút các nguồn lực bổ sung để hỗ trợ phát triển nền kinh  tế xanh [4].

Mặc dù chưa có thể định ra được số lượng vốn cần thiết, nhưng Chính phủ Nam Phi đã đầu tư trên 827 tỷ ZAR vào các dự án cơ sở hạ tầng cho giai đoạn 2013-2017 và dự kiến đầu tư khoảng 4 nghìn tỷ ZAR cho giai đoạn tiếp theo tới năm 2028 [9]. Để huy động nguồn lực cho các dự án xanh hóa nền kinh tế, Chính phủ Nam Phi đã thực hiện thông qua hệ thống tài chính của mình. Cụ thể là, Chính phủ Nam Phi đã giao cho một số định chế tài chính phát triển của nhà nước (DFI) (những định chế này vốn chuyên cung cấp tài chính cho các dự án, các khu vực kinh tế hoặc các bộ phận dân cư không có khả năng tiếp cận được các dịch vụ của hệ thống tài chính thông thường) nhiệm vụ hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp mới và các chuỗi giá trị, hỗ trợ hoạt động đầu tư của nhà nước và khu vực tư nhân. DFI thường tiếp nhận vị thế rủi ro hơn trong các thỏa thuận tài trợ dự án, làm cho các phần khác của thỏa thuận trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư tư nhân nhằm thu hút họ tham gia vào các thỏa thuận này. Chính phủ Nam Phi cũng thông qua Quỹ hưu trí nhân viên nhà nước (GEPF) - nhà đầu tư tổ chức lớn nhất của Nam Phi và là quỹ hưu trí lớn thứ sáu trên thế giới - và thông qua các quỹ hưu trí khác để huy động một lượng vốn đáng kể đầu tư phát triển các lĩnh vực mới theo hướng xanh hơn. 

Chính phủ Nam Phi cũng đi tiên phong trong việc phát hành trái phiếu xanh để tài trợ cho các dự án có mục tiêu giảm bớt những tác hại của biến đổi khí hậu, qua đó để góp phần hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường trái phiếu xanh còn đang ở giai đoạn sơ khai của châu lục này [6]. Johannesburg là thành phố đầu tiên của Nam Phi đã phát hành Trái phiếu đô thị xanh vào năm 2014 với tổng trị giá của đợt phát hành 1.46 tỷ ZAR qua Sở giao dịch chứng khoán

Johannesburg (JSE). Số tiền huy động được dùng để tài trợ thực hiện các dự án làm giảm phát thải khí nhà kính và góp phần xây dựng một “Thành phố Johannesburg xanh” [6]. Tiếp theo đó, trong năm 2017, thành phố Cape Town phát hành một đợt trái phiếu khí hậu với tổng trị giá là 1 tỷ ZAR để tài trợ cho hàng loạt các sáng kiến giảm nhẹ vả thích ứng với tình trạng biến đối khí hậu của thành phố (như mua xe buýt điện, các biện pháp nhằm sử dụng hiệu quả năng lượng trong các tòa nhà, quản lý sử dụng nguồn nước, nâng cấp hồ chứa, xử lý nước thải, phục hồi và bảo vệ các công trình ven biển). Chính quyền thành phố Cape Town cũng đã phát triển Khung Trái phiếu Xanh, trong đó xác định những dự án đủ điều kiện để được tài trợ bằng nguồn vốn huy động được từ đợt phát hành trái phiếu khí hậu này [10].

Thêm vào đó, để cung cấp thêm nguồn lực thực hiện chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, Chính phủ Nam Phi cũng có kế hoạch ban hành Thuế carbon. Việc này cũng có thể hỗ trợ Chính phủ thực hiện mục tiêu giảm lượng khí thải CO2 của nền kinh tế cũng như hạn chế việc tiêu dùng không cần thiết hoặc lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, việc chuyển đổi hệ thống thuế từ đánh thuế đối với việc làm và thu nhập phát sinh từ các hoạt động gây hại môi trường sang đánh thuế trực tiếp vào các hoạt động có hại cho môi trường và không hỗ trợ cho phát triển bền vững nền kinh tế có thể xem như là một biện pháp giúp Chính phủ Nam Phi giảm bớt tác động bất lợi của các ngoại ứng môi trường, đồng thời không tạo thêm gánh nặng thuế cho người dân [4]. Tuy nhiên, ở đây cũng phải đặc biệt chú trọng tới việc xác định các ưu đãi thuế cho những dự án xanh để không ảnh hưởng tới vấn đề cạnh tranh bình đẳng cũng như chiến lược dài hạn của Chính phủ.

2.3. Xanh hóa hoạt động của hệ thống  tài chính

Giá trị của hệ thống tài chính nằm ở vai trò tạo ra một nền kinh tế “thực” năng động và hiệu quả góp phần hỗ trợ cho mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm của toàn bộ nền kinh tế. Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) [5], giữa nền kinh tế “thực” Châu Phi với hệ thống tài chính của châu lục này có mối liên quan chặt chẽ. Cụ thể là, nền kinh tế “thực” là một phần của nền kinh tế, có liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất và phân phối hàng hoá và dịch vụ thực sự, trái ngược với hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính là hệ thống có mục tiêu phục vụ và hỗ trợ nền kinh tế thực bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch tài chính (bao gồm dẫn vốn, chuyển hóa rủi ro, chuyển đổi các tài sản tài chính đảm bảo tính thanh khoản của các tài sản này). Nói cách khác, mục đích của hệ thống tài chính là đảm bảo phân bổ vốn một cách hiệu quả thông qua việc luân chuyển vốn tới những đối tượng có thể sử dụng vốn một cách tốt nhất.

Nam Phi có một hệ thống tài chính tinh vi với cơ cấu hoạt động đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế [7]. Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2013/14 xếp hạng Nam Phi đứng thứ 3 trong số 148 quốc gia về phát triển thị trường tài chính. Hệ thống tài chính Nam Phi chiếm gần 70% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán Châu Phi, có giá trị khoảng 1,4 nghìn tỷ USD với 388 công ty niêm yết trong tổng số khoảng 1.100 công ty niêm yết tại 19 thị trường chứng khoán của châu lục này [4]. Trong Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu 2014/15, Nam Phi được xếp ở vị trí đầu tiên xét về đến quản lý các giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, Nam Phi cũng được đánh giá cao về các yếu tố liên quan đến phát triển thị trường tài chính, kiểm toán và quản trị doanh nghiệp. Năm 2013, khu vực tài chính đóng góp 10,5% GDP, sử dụng 4% lực lượng lao động và góp 15% tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp [9]. Với đội ngũ nhân viên và cơ sở hạ tầng đạt chất lượng đẳng cấp thế giới, thị trường tài chính Nam Phi có thể thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như có khả năng thường xuyên cập nhật các mô hình công nghệ, kinh doanh mới và thực hiện đổi mới quy trình hoạt động.

Xuất phát từ nhu cầu giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội vẫn tồn tại, cũng như thể hiện trình độ quản lý đẳng cấp thế giới, khu vực tài chính ở Nam Phi là khu vực đi đầu trong việc lồng ghép các vấn đề về ESG vào các hoạt động của mình. Mặc dù trong số ba trụ cột này thì các vấn đề môi trường thường được coi là ưu tiên thấp hơn, nhưng thời gian gần đây những vấn đề này càng trở nên quan trọng do nhận thức chung được nâng cao.

Chính phủ Nam Phi khuyến khích các ngân hàng áp dụng các nguyên tắc “nhà tài trợ có trách nhiệm”, phát triển các tiêu chuẩn quản trị ESG và tham gia các sáng kiến quốc tế như Sáng kiến Tài chính UNEP, Nguyên tắc Xích đạo (Bộ tiêu chuẩn mang tính chất tự nguyện cho ngành dịch vụ tài chính nhằm xác định, đánh giá và quản lý các rủi ro môi trường, xã hội trong các dự án một cách hệ thống và liên tục được xây dựng trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực hiện có và nhu cầu của các nhà đầu tư tài chính) hay Diễn đàn Tài chính Bền vững của Hiệp hội Ngân hàng Nam Phi (BASA). Bốn ngân hàng thương mại lớn của Nam Phi đã áp dụng các Nguyên tắc Xích đạo và có các tiêu chuẩn nhằm xác định, đánh giá và quản lý rủi ro ESG đối với tài trợ dự án có giá trị từ 10 triệu USD trở lên. Nguyên tắc Xích đạo đã làm tăng khả năng của ngân hàng khi xác định rủi ro ESG. Nguyên nhân này coi việc đánh giá những rủi ro này như là một phần trong quy trình đánh giá tín dụng chuẩn, cũng như là căn cứ để ngân hàng khi làm việc với những người vay tiềm năng có thể giảm thiểu những rủi ro đó tới mức có thể chấp nhận được. Những nhà quản lý thuộc hai trong số các ngân hàng lớn nhất của Nam Phi đã xác nhận rằng, về nguyên tắc họ không tài trợ cho các dự án mà người đi vay không đáp ứng các yêu cầu quy định về xã hội và môi trường hoặc người đi vay không có các nguồn lực để thực hiện các thủ tục của Nguyên tắc Xích đạo trong hệ thống quản lý, lập kế hoạch hành động, hoạt động tư vấn, công bố thông tin, cơ chế khiếu nại. 

3. Hàm ý cho Việt Nam

Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam thời gian qua dựa nhiều vào khai thác tài guyên, xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ chế; điều đó gây thiệt hại cho môi trường và gia tăng tác động của biến đổi khí hậu. Bởi vậy, trong chiến lược phát triển giai đoạn 20112020, Việt Nam đã xác định yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược; đó là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững. Trong chiến lược đó, đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế xanh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Nghiên cứu kinh nghiệm chuyển đổi sang nền kinh tế xanh của Nam Phi có thể đưa ra những hàm ý chính sách cho Việt Nam sau đây.

Thứ nhất, điều phối quá trình xây dựng chính sách. Việc chuyển đổi nền kinh tế xanh đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa giữa khung khổ luật pháp, các chính sách với cơ chế ưu đãi, các biện pháp giáo dục cũng như cơ chế trao đổi cung cấp thông tin. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Phi, trong đó có Nam Phi, cho thấy rằng: xây dựng và ban hành chính sách và khuôn khổ pháp lý hợp lý (ví dụ như định ra các tiêu chuẩn tối thiểu hoặc cấm hoàn toàn một số hoạt động nhất định) có thể loại bỏ các rào cản và điểu chỉnh những hình thức nguy hại nhất của các hoạt động kinh tế không bền vững, có thể tạo ra các sáng kiến mới hỗ trợ thực hiện quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh. Chính phủ Việt Nam, nếu điều hành một cách có hiệu quả kết hợp với khung khổ pháp lý được thiết kế theo chuẩn quốc tế, thì sẽ gia tăng tính minh bạch và hỗ trợ quá trình thực thi các sáng kiến xanh. Mặt khác, việc giáo dục và nâng cao năng lực là cần thiết để gia tăng nhận thức cũng như góp phần đào tạo ra một lực lượng lao động với những kỹ năng mới đáp ứng các yêu cầu của các vị trí công việc xanh. Chính phủ Nam Phi coi giáo dục và đào tạo cho các chủ trang trại nhỏ như là một trong những ưu tiên nhằm nâng cao năng suất và tính bền vững trong hoạt động sản xuất nông nghiệp xanh của quốc gia này. Ngoài ra, việc thành lập các cơ chế điều phối liên ngành trong quá trình xây dựng chính sách cũng là chìa khóa để hỗ trợ quá trình chuyển đổi một cách hiệu quả sang nền kinh tế xanh.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xanh. Để đảm bảo quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh thành công, Chính phủ Việt Nam cần phải xây dựng một kế hoạch tổng thể để làm cơ sở cho các sáng kiến xanh cụ thể. Kinh nghiệm của Nam Phi cho thấy rằng, để thực hiện chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia về phát triển kinh tế xanh được hiệu quả và đem lại kết quả mong đợi thì điều quan trọng là phải lồng ghép chiến lược và kế hoạch này vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung cùng với những phân bổ ngân sách cụ thể, đảm bảo có đủ nguồn lực cần thiết để triển khai. 

Thứ ba, xây dựng kế hoạch huy động nguồn ngân sách triển khai. Đầu tư vào nền kinh tế xanh thường đòi hỏi những khoản đầu tư lớn trong một thời gian dài trước khi nhận được những kết quả đầu tư cụ thể, việc huy động nguồn lực tài chính cần thiết thường rất khó thực hiện. Bởi vậy, Chính phủ Việt Nam cần ban hành các công cụ chính sách hỗ trợ tài chính cho hoạt động kinh tế xanh (như các chương trình cho vay ưu đãi, các hình thức góp vốn xã hội hóa, các khoản trợ cấp không hoàn lại có điều kiện trợ cấp, các hình thức tài chính vi mô). Ví dụ, Chính phủ Nam Phi đã thành lập

Quỹ Xanh có nguồn vốn trị giá 800 triệu USD với mục đích hỗ trợ cấp vốn ban đầu cho các dự án xanh có ảnh hưởng lớn đến môi trường nhưng khó khăn trong huy động vốn thực hiện. Mặt khác, Chính phủ Việt Nam cũng cần thực hiện những cải cách trong chính sách tài khóa nhằm mở ra không gian mới cho sự tăng trưởng, đầu tư và bảo vệ các thành viên yếu thế trong xã hội, vì đó là ba đặc điểm chính của một nền kinh tế xanh toàn diện. Ví dụ, Chính phủ Việt Nam, nếu từ bỏ những khoản trợ cấp của nhà nước cho những ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu hóa thạch độc hại, thì có thể tạo ra những nguồn lực tài chính cho các khoản đầu tư mới trong các lĩnh vực xanh. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) [8], việc cắt giảm trợ cấp nhiên liệu hoá thạch ở Châu Phi sẽ giải phóng nguồn lực công cộng ước tính khoảng 1,4% GDP của toàn châu lục và có thể được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động bảo trợ xã hội và đầu tư cho giáo dục và y tế. Riêng ở trường hợp của Nam Phi, số tiền Chính phủ trợ cấp cho các hộ nghèo để bình ổn giá nhiên liệu tính cho năm 2011 đã lên tới 1,38 tỷ USD. Đây được coi là một trong những khó khăn chính trong kế hoạch chuyển đổi sang nền kinh tế xanh của Chính phủ Nam Phi. Vì vậy, trong nỗ lực tìm cách thức huy động nguồn lực tài trợ cho các hoạt động xanh hóa nền kinh tế, Chính phủ Nam Phi đã lên kế hoạch ban hành loại thuế môi trường mới là thuế Carbon. Theo đó, Chính phủ Nam Phi dự kiến có thể sử dụng các khoản thu mới từ thuế carbon để hỗ trợ nghiên cứu và phát triển các lĩnh vực xanh, kích thích các sáng kiến đổi mới, giảm lãng phí và chi phí của quy trình sản xuất truyền thống.  

Thứ tư, gia tăng chi tiêu công xanh. Chi tiêu của Chính phủ Nam Phi cho các sản phẩm xanh và hoạt động đầu tư xanh là một yếu tố hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Thông qua hoạt động này Chính phủ Nam Phi có thể thúc đẩy công nghệ xanh phát triển, thông qua việc khuyến khích sử dụng hàng hóa xanh ở cả khu vực công và khu vực tư nhân, qua đó giảm chi phí, đầu tư vào các ngành công nghiệp xanh và khuyến khích tiêu dùng bền vững. Các chương trình mua sắm của Chính phủ Nam Phi đã hỗ trợ các thị trường mới, đặc biệt là hỗ trợ các thị trường sản xuất lương thực hữu cơ, năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng.

4. Kết luận

Chuyển đổi mô hình từ nền kinh tế nâu truyền thống sang nền kinh tế xanh là xu hướng mà nhiều quốc gia trên thế giới theo đuổi. Nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng kinh tế xanh của Nam Phi cho thấy rằng chính phủ có một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi này. Việc chính phủ điều phối quá trình xây dựng chính sách, ban hành kế hoạch tổng thể để phát triển kinh tế xanh (trong đó chú trọng tới những biện pháp huy động nguồn vốn cần thiết để triển khai kế hoạch, gia tăng chi tiêu công xanh) là điều kiện cần thiết để một quốc gia có thể thành công trong việc xây dựng một nền kinh tế xanh. Đây chính là những kinh nghiệm hữu ích mà Việt Nam có thể cân nhắc trong quá trình thực thi chiến lược phát triển hiện nay và tương lai.

Tài liệu tham khảo

[1]       IMF     (2010),   South     Africa:   Report    on Observance of Standards and Codes - Banking Supervision, Insurance Supervision and Securities Regulations, Report No.10/352, Washington D.C.

[2]       Stadium, M (2014), Review of green economy and climate finance: Overview of South Africa's Key National Initiatives, National Treasury.

[3]       UNEP (2015b), Aligning Africa's financial system with sustainable development: Design of a sustainable financial system, Geneva.

[4]       UNEP (2015c), Building Inclusive Green Economies in Africa: Experience and Lessons Learned from 2010-2015, Geneva.

[5]       UNEP (2016), Inquiry Working Paper 16/10, Geneva.

[6]       http://www.alcbfund.com/wp content/uploads/2017/05/African-Green-Bond-Market.pdf

[7]       http://www.financialstabilityboard.org/wpcontent/uploads/r_130205.pdf?page_moved=1 

[8]       http://www.imf.org/external/np/pp/eng/2013/012813.pdf

[9]       http://www.africaneconomicoutlook.org/ fileadmin/uploads/aeo/2014/PDF/Pocket_Editi on_AEO2014-EN_mail.pdf

[10]   https//www.businesslive.co.za/bd/national/2017-02-22-cape-town-issues-green-bond. 

[11]   http://www.bis.org/ifc/publ/ifcb33n.pdf

[12]   http://www.unep.org/greeneconomy/Portals/

88/documents/ger